Cù Huy Hà Vũ : “Trái đôi” Xuân Diệu, Huy Cận với Tự lực văn đoàn

LTS : Tác giả vừa gửi đến Báo Quảng Nam bài viết dài có tựa : “, với . Họa sĩ, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ là con ruột của nhà thơ và được nhận làm con nuôi. Vì thế, tác giả đã sở hữu những thông tin quý giá về “đôi bạn” đặc biệt của văn đàn Việt Nam mà tác giả gọi là “trái đôi”. Nhận xét, đánh giá về Tự lực văn đoàn, văn học sử Việt Nam đã có nhiều kiến giải khác nhau. Với tài liệu của tác giả Cù Huy Hà Vũ mà Quảng Nam cuối tuần lần lượt giới thiệu, độc giả sẽ được bổ khuyết nhiều chi tiết thú vị và có thêm cái nhìn cận cảnh hơn không khí văn chương từ những thập niên 30, 40 (thế kỷ XX); cũng như những tiết lộ thú vị về chuyện Huy Cận suýt trở thành thành viên thứ 9 của Tự lực văn đoàn, đánh nhau với một nhóm Việt quốc (Việt Nam Quốc dân đảng), Việt cách (Việt Nam Cách mạng đồng minh) đến mức ông phải bỏ xe đạp chạy thoát thân…

 

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc tư liệu dài kỳ này.

 Xuân Diệu và Huy Cận

Lấy chăn phủ ghế chui qua/ Ngăn bàn thích lục, tranh gà thích xem/ Xếp rồi cháu lại đảo lên/ Có hôm bác phải mười phen dọn nhà” (1), ấy là câu thơ của Xuân Diệu tả tôi (tức tác giả Cù Huy Hà Vũ – tòa soạn) đang biến cuộc sống văn chương ngăn nắp của ông tại 24 Cột Cờ (nay là Điện Biên Phủ, Hà Nội) thành một “trật tự thế giới mới”, trật tự của những sự đảo lộn. Và Xuân Diệu đã tôn trọng cái “nền giáo dục tự thân và tự giác” ấy của tôi như điều kiện tiên quyết để hình thành nhân cách tri thức. Về phần mình, đơn giản tôi nghĩ là nếu không có người bác và là người cha nuôi thân yêu ấy thì làm sao tôi có thể hình dung nổi thuở bé thơ của mình. Nói cách khác, các bậc phụ huynh chính là những người đầu tiên chép sử con cái của họ. Sau khi đã mệt nhoài với những kiến tạo thế giới theo cách của mình, tôi lại nằm co vào lòng bác để thiu thiu thực hành một nền học vấn không tự giác hay vô thức qua lời ru của ông với “Phụ tử tình thâm” và những câu hát dặm Nghệ – Tĩnh. Đôi khi thảng thốt tôi tỉnh dậy và mở mắt ra (cũng dễ hiểu vì giấc ngủ chớm trưa không thật sâu) thì vẫn thấy bác Diệu ngồi đó, tựa lưng vào thành giường, lời ru không còn thành tiếng nhưng vẫn nhận biết được nhờ những nhịp vỗ khẽ lên tôi, cái nhìn trở nên xa xăm, chốc chốc ông lại nhìn xuống nhoẻn cười với tôi nhưng vẫn với cái xa xăm ấy.

Khi chớm tuổi đến trường thì chiến tranh đã lan ra miền Bắc và thế là tôi phải xa gia đình đi sơ tán, tất nhiên không ngậm ngùi như cậu bé Rémy trong tiểu thuyết trứ danh “Không gia đình” của Hecto Malo. Thực vậy, mối liên hệ giữa tôi với gia đình hầu như không bị gián đoạn vì cứ vào cuối tuần bác tôi lại xắn quần đạp xe 30km về thăm tôi tại Chùa Thầy. Chính vào những đêm đầy sao trên bờ thửa cánh đồng nơi sơ tán mà tôi được Xuân Diệu truyền cho cái vi diệu của những áng văn cổ: hết Nguyễn Khuyến, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương lại đến Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm và trở đi trở lại là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du – đại thi  hào cũng quê Hà Tĩnh. Những lúc đó tôi đến với văn học một cách bán ý thức: có thấy được cái Hay, cái Đẹp nhưng lại không cố tìm hiểu hết Nghĩa mà những con chữ lung linh như những vì sao kia chuyển tải.

Vào tuổi thành niên, sự tò mò cao độ của tôi về bản ngã may mắn thay lại được thỏa mãn với sự hiện diện của Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Dọc đường gió bụi, Tiêu sơn tráng sĩ… trong tủ sách của bác tôi. Những pho truyện tình cảm đó của Tự lực văn đoàn thời ấy bị liệt vào “sách cấm” ấy vậy mà bác tôi không cản tôi đọc, thậm chí còn giảng giải là đằng khác. Tôi còn nhớ bác tôi tấm tắc mãi với bố tôi, Huy Cận, câu của Phạm Thái – người câu cá : “Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy hai con mắt mỹ nhân”. Thật lạ, đọc những truyện ấy không những tôi không cảm thấy bi lụy, buồn chán bởi những cuộc tình ảo não, vô vọng mà còn hứng khởi trước những tình cảm mới mẻ, rất có cá tính, điều mà tôi không cảm nhận được một cách rõ ràng từ nền giáo dục đương thời. Cũng có thể tôi không còn ở cái thời đại của những con người “tiểu tư sản” nào đó sống không có mục đích rõ rệt đâm ra chán đời. Nhưng trong bối cảnh cuộc chiến vẫn tiếp diễn, cái “tập thể” dường như từ chỗ nhân danh đã đi đến chỗ gần như thay thế hẳn cái “riêng”, cái “cá nhân” chí ít trên bình diện xã hội,  nên những cái gì giúp tôi “giải mã” được những cái “cảm” của trẻ trai mới lớn thật sự làm tôi khoan khoái. Mặt khác, cũng phải nói rằng những tình cảm nhân đạo của những Anh phải sống, Gánh hàng hoa, Đời mưa gió… trong một chừng mực nhất định có thể là động lực giúp ta thành những anh hùng vô danh với những hành động nghĩa hiệp giữa đời thường. Rồi những cuốn truyện lãng mạn ấy bắc cầu cho tôi đến với Thơ thơ, Gửi hương cho gió, Lửa thiêng – những thi phẩm trước cách mạng hay còn gọi là “tiền chiến” của bác tôi và bố tôi. Tưởng như có vẻ ngược đời nhưng lại là sự thật. Và rồi tôi mới vỡ ra rằng, xét theo hoàn cảnh thì tôi lại là người chậm chân đến với những giá trị tinh thần của những người thân yêu nhất của tôi vì trong đáy ba-lô của bao con người trẻ tuổi trên những ngả đường chiến tranh có những dòng nắn nót chép thơ tình Xuân Diệu, những Tràng giang, Vạn lý tình, Ngậm ngùi, Áo trắng của Huy Cận. Đến đây thì dẫu trí còn non nớt, tôi cũng khẳng định được rằng cái văn đoàn ấy một khi đã “tạo” ra những Xuân Diệu, Huy Cận thì không thể “tiêu cực” như tôi được hiểu bấy lâu nay. Thế là lần theo hai “chứng nhân – người nhà” ấy tôi đi tìm diện mạo Tự lực văn đoàn trong phạm vi “lịch sử tình yêu” giữa thể chế văn chương này cùng với các thành viên sáng lập và Xuân Diệu và Huy Cận. Để nói rằng lần này thì tôi đến với văn chương, dù dưới khía cạnh sử học,  một cách chủ động, hay đúng hơn là có ý thức.  Lẽ dĩ nhiên cuộc tình nào cũng không tránh khỏi những bề trầm, những éo le của nó.

Tự lực văn đoàn được sáng lập năm 1933 bởi nhóm làm báo Phong Hóa gồm bảy người: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ và Nguyễn Gia Trí, có trụ sở tại 80 Grand-Bouddha (nay là Quan Thánh) Hà Nội. Nhóm này chủ trương “Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài… để làm giàu thêm văn sản trong nước”, “Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả, quí phái” và nhất là “Trọng tự do cá nhân”. Con số 7 gắn với mục đích văn chương này gợi nhớ tới Pléiade gồm bảy nhà thơ của Pháp thế kỷ XVI do Ronsard và Du Bellay cầm chịch, nhưng Tự lực văn đoàn chỉ có thể được coi là “bản sao” của Thất tinh Pháp với sự gia nhập của Xuân Diệu. “Và từ đây chúng ta đã có Xuân Diệu”, lời reo vui ấy của Thế Lữ trong Tựa Thơ thơ cũng chính là sự hoan nghênh nhiệt liệt của nhóm Tự lực dành cho chàng thi sĩ “hiền hậu và say mê” được khám phá bởi chính họ. Quả vậy, Xuân Diệu ra mắt công chúng với  Với bàn tay ấy  in trên báo Phong Hóa năm 1935 khi còn là cậu học sinh Lycée (trung học) Khải Định. Và Thế Lữ chính là người có “con mắt xanh” phát hiện ra và hơn thế nữa hết lòng tuyên truyền cho tài năng ấy. Giở lại trang thư của tác giả Nhớ rừng gửi Xuân Diệu từ 1936, ta có thể đọc: “Lúc nào nghĩ đến anh, hay nói đến anh trước mặt bạn hữu tôi, tôi đều thấy vui vẻ sung sướng như nghĩ đến, nói đến một thứ tài trong trẻo và có hy vọng rất nhiều. Nhiều lần tôi đọc thơ anh cho người khác nghe để giảng dẫn cho họ thấy những tình cảm rất tươi thắm mà chưa nhà thi sĩ Việt Nam nào phô diễn ra được. Tôi tin ở tài anh lắm và lúc nào cũng mong được đọc thơ anh gửi ra”. Như thể “chúa rừng Thơ Mới” thoạt kỳ thủy giờ đã hết phải ngậm ngùi “thời oanh liệt nay còn đâu” vì đã tìm ra được kẻ xứng đáng kế tục mình trong công cuộc chinh phục hoàn toàn chốn “thi lâm”. Rồi “Thấy anh được thưởng giải nhất về Pháp văn ở Concours Général (giải toàn Đông Dương mà hai năm sau, 1938, Huy Cận cũng đoạt được – CHHV), tôi rất sung sướng, nhưng không lấy gì làm lạ. Xuân Diệu giỏi hơn các bạn học về văn chương là một việc dĩ nhiên rồi. Tôi mong cho công nghiệp trước tác của anh sau này cũng rực rỡ như thế”. Ôi, những tình cảm đẹp đẽ và đầy ánh sáng như thế của bậc đàn anh đối với người đến sau trong làng văn có còn lặp lại được ru! Không chỉ dừng lại đấy, Thế Lữ “chộp” lấy “tài trong trẻo và có hy vọng rất nhiều” ấy để gây thanh thế cho Tự lực ngay khi chàng vừa đỗ Bac (tú tài) vào tháng 6-1937 với lời mời gọi thiết tha: “Anh Xuân Diệu. Anh có thể ra ngay Hà Nội được không? Ra để liệu tìm cách sống ở đây, nghĩa là để lăn lóc vất vả cùng với bạn hữu”. Và dường như để khẳng định cái “nghiệp”, ông tiếp: “viết bài”kiếm ăn” được ít, nhưng có lẽ đó là thứ công việc hợp với chúng ta hơn”. “Được lời như cởi tấm lòng”, Xuân Diệu từ Huế ra ngay Hà Nội và xắn tay viết cho Báo Ngày Nay của Tự lực và năm sau chính thức “xe duyên” cùng Văn đoàn với tư cách là thành viên thứ tám. Sự nhiệt tình, cái sốt sắng ấy của Tự lực đối Xuân Diệu cũng là tình cảm chung của nhiều nhóm thi nhân cùng thời và thi sĩ họ Ngô có thể nói trở thành đối tượng “giành giật” của các nhóm đó. Chính Hàn Mặc Tử đã bàn với Chế Lan Viên ngay từ tháng 1-1938 là mời cho bằng được Xuân Diệu để lập một Thi Xã tên là Hoàng Anh Tao Đàn với mục đích “nâng cao trình độ thơ mới và tuyển trạch nhân tài”. Cái Thi Xã ấy của “ba chàng ngự lâm pháo thủ” xứ Bình Định mãi mãi là dự định vì bản thân Chế đã cảm nhận được sự gắn bó của Xuân Diệu với Thất tinh Hà Nội và vì vậy thi sĩ họ Hàn lấy làm “tiếc lắm”. Cũng cần nhắc lại rằng Tự lực văn đoàn, ngoài các báo Phong Hóa và Ngày Nay (2), còn sở hữu Nhà xuất bản Đời Nay, một nhà xuất bản lấy “Tìm tòi những nhà văn có giá trị, khuyến khích họ, làm cho nhà văn và tác phẩm được nhiều người biết đến” làm phương châm. Vì thế có gì đáng ngạc nhiên khi Thơ thơ, “cụm đầu mùa” của Xuân Diệu, là do Đời Nay ấn hành, giới thiệu. Thơ, ấy chính là cái gạch nối giữa thi nhân họ Ngô (Xuân Diệu họ Ngô – tòa soạn) và Tao đàn và được thể hiện không gì rõ hơn ở ngay chính tiêu đề: Xuân Diệu - Thơ thơ – Tự lực văn đoàn. Ngược lại, chẳng có gì là lạ khi Xuân Diệu đề tặng các thành viên của “gia đình văn chương” của mình những bài thơ khoái cảm nhất của ông : Cảm xúc tặng Thế Lữ, Đây mùa thu tới tặng Nhất Linh, Đi  thuyền tặng Khái Hưng, Vô biên tặng Hoàng Đạo, Nhị hồ tặng Thạch Lam, Giới thiệu tặng Tú Mỡ, Đơn sơ tặng Nguyễn Gia Trí. Thế nhưng có người vồ lấy cái tiêu đề ấy, những lời đề tặng ấy để nói Xuân Diệu là người cạn nghĩa cạn tình khi “cạo hẳn” dòng chữ Tự lực văn đoàn trong Thơ thơ in lần thứ hai và những lời đề tặng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo trong những ấn phẩm sau này của ông. Thực ra ai nói như vậy không phải là người làm nghiên cứu đến nơi đến chốn. Thực ra bên cạnh Tự lực, Xuân Diệu đã có Huy Cận.

(Còn nữa)
———
(1) Xuân Diệu – Bác đi xa cháu, nhớ ghê – Hai đợt sóng, NXB Văn học 1967.
(2) Cuốn Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945)  NXB Văn học 2002 (tr.241)  cho rằng Ngày Nay kế tục Phong Hóa  khi Phong Hoá bị đóng cửa vào 1936. Trong thực tế hai tờ báo song song tồn tại trong một thời gian vì ở “en tête” của giấy viết thư của Tự lực văn đoàn có ghi : Phong Hóa – 80 Avenue Grand-Bouddha (Quan Thánh) và Ngày Nay- 55 Rue des Vermicelles (Hàng Bún).

Cù Huy Hà Vũ

Cùng Danh Mục:

Liên Quan Khác

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

You may use these HTML tags and attributes: <a href="" title=""> <abbr title=""> <acronym title=""> <b> <blockquote cite=""> <cite> <code> <del datetime=""> <em> <i> <q cite=""> <strike> <strong>